Sau giai đoạn kinh doanh khó khăn trong năm 2018 và 2019, 2 ông lớn của ngành tôn Việt Nam là Hoa Sen và Nam Kim vừa công bố báo cáo tài chính quý 1 với kết quả kinh doanh rất khả quan. Đối với Hoa Sen, doanh thu trong quý 1 của công ty đạt 5778,5 tỷ, giảm 16,4% nhưng lãi ròng lại tăng trưởng tới 277.9% so với cùng kỳ và đạt 201 tỷ. Về phía Nam Kim, tuy doanh thu giảm 16.7% nhưng lãi ròng của công ty quý này đạt 41.5 tỷ so với con số -101.6 tỷ cùng kỳ.
Trước một kết quả kinh doanh lạc quan như vậy, giá cổ phiếu của 2 doanh nghiệp này cũng ghi nhận những chuyển biến hết sức tích cực cho nhà đầu tư. Chỉ trong vòng từ đầu tháng 4 đến nay, giá cổ phiếu của HSG đã tăng 69.75% và đóng cửa ở mức 7350 đồng/cổ phiếu ngày 28/4. Cổ phiếu của Nam Kim cũng ghi nhận mức tăng giá ấn tượng đạt 50% với thời điểm đầu tháng 4.
Sự đồng thuận của giá cổ phiếu và kết quả kinh doanh phản ánh kỳ vọng của nhà đầu tư về sự hồi sinh của 2 ông lớn ngành tôn này trong tương lai. Liệu điều này có thực sự khả thi và kết quả kinh doanh tích cực trong quý 1 của 2 doanh nghiệp này có duy trì trong thời gian tới? Trên thực tế, bối cảnh hiện tại của ngành tôn trong nước lại đang gặp nhiều thách thức hơn là những cơ hội trong tương lai.
Nguồn cung vượt cầu
Nhìn lại vào quá khứ, giai đoạn 2013 – 2018 từng chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành thép trong nước, đặc biệt là lĩnh vực sản xuất tôn mạ. Mức tiêu thụ tôn trong nước đạt tốc độ tăng trưởng kép hàng năm lên tới 20.5% trong suốt quãng thời gian này và đứng đầu nhóm các sản phẩm thép. Đặc biệt trong năm 2016, tốc độ tăng trưởng tiêu thụ tôn của cả nước đạt tới 32.1%. Điều này đã mở ra một năm kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp tôn trong nước. Cũng trong năm này, HSG đã đạt được con số kỷ lục trong lịch sử kinh doanh với mức lãi 1753 tỷ đồng và Nam Kim là 517 tỷ đồng.
Việc thị trường tiêu thụ thuận lợi khiến các doanh nghiệp ồ ạt mở rộng đầu tư công suất trong giai đoạn sau đó. Tới cuối năm 2018, 6 doanh nghiệp đừng đầu chiếm tổng cộng 83% thị phần của toàn ngành có tổng công suất đạt gần 5 triệu tấn, trong khi nhu cầu tiêu thụ lúc bấy giờ cũng chỉ đạt 3.8 triệu tấn. Sang năm 2019, tình hình còn khó khăn hơn tiêu thụ toàn ngành giảm 2.1%. Đây cũng là năm đầu tiên chứng kiến mức tiêu thụ toàn ngành tăng trưởng âm trong vòng 10 năm trở lại đây.
Tốc độ hấp thụ của thị trường không theo kịp với tốc độ gia tăng công suất khiến các nhà máy chỉ huy động công suất trung bình khoảng 65% so với tổng công suất thiết kế, thậm chí nhiều nhà máy phải đóng cửa hoặc chuyển nhượng để duy trì dòng tiền cho doanh nghiệp. Nhìn chung, việc đầu tư mở rộng mạnh trong những năm vừa rồi đã khiến tổng công suất vượt nhu cầu tiêu thụ khá nhiều.
Chính sách bảo hộ ngành thép trên thế giới khiến xuất khẩu tôn trong nước gặp khó khăn
Bên cạnh sự yếu đi của nhu cầu trong nước, thì nguyên khác khiến cho tiệu thụ tôn cả nước trong năm 2019 tăng trưởng âm là do sự chậm lại từ thị trường xuất khẩu mà nguyên nhân chính đến từ các chính sách bảo hộ thương mại trên toàn thế giới.
Từ đầu năm 2019 đến nay, tôn mạ Việt Nam liên tiếp rơi vào các vụ kiện và điều tra tự vệ thương mại lớn. Một số nước tại thị trường chủ lực Đông Nam Á đã điều tra và áp thuế đối với sản phẩm của Việt Nam. Tháng 9, Malaysia sẽ áp biên độ phá giá từ 3,7-20,13% đối với thép cuộn cán nguội và thép không hợp kim xuất khẩu từ Việt Nam. Trong khi đó, Indonesia quyết định khởi xướng điều tra chống bán phá giá với tôn mạ trong nước vào cùng thời điểm. Gần đây là nhất là vào cuối 2019, một trong những thị trường xuất khẩu tôn của chủ lực của Việt Nam là Mỹ là chính thức áp thuế hơn 450% với các sản phẩm thép Việt Nam có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc và Hàn Quốc mà trong đó chủ yếu là các mặt hàng tôn mạ.
Những vụ kiện chống phá giá này đã khiến xuất khẩu tôn mạ cả nước năm 2019 chỉ đạt 1,41 triệu tấn, giảm mạnh 19.42% so với cùng kỳ. Con số này chiếm 37.64% tổng lượng tiêu thụ và giảm so mức 45.7% của năm 2018.

Biên lợi nhuận phục thuộc vào giá nguyên vật liệu
Trước năm 2017, Việt Nam chưa có doanh nghiệp nào sản xuất được nguyên liệu đầu vào của ngành tôn và ống thép là thép cuộn cán nóng (HRC). Nguồn nguyên liệu phục vụ quá trình sản xuất tôn trong nước chủ yếu đền từ nhập khẩp từ thị trường Trung Quốc và một số nước khác trên thế giới như Mỹ, Nhật, Nga… Giai đoạn sau 2017, nhà máy Formosa Hà Tĩnh chính thức đi vào hoạt động với nguồn cung HRC cho thị trường trong nước khoản 4 triệu tấn mỗi năm, đáp ứng được ½ nhu cầu tiêu thụ của cả nước. Điều này đã góp phần giảm phụ thuộc vào nguồn HRC nhập khẩu cũng như giúp các doanh nghiệp tránh được một số rào cản thương mại về nguồn gốc xuất xứ.
Mặc dù vậy, chi phí nguyên vật liệu chiếm tới hơn 80% chi phí sản xuất và do vẫn phải phụ thuộc vào 50% nguồn cung nhập khẩu nên biến động giá HRC thế giới sẽ tác động mạnh đến biên lãi của các doanh nghiệp sản xuất tôn.

Trong năm 2015 và đầu năm 2016, khi giá HRC có xu hướng giảm về vùng đáy 2000 NDT/tấn, biên lãi của HSG và NKG bắt đầu gia tăng. Không chỉ vậy, việc duy trì tỷ lệ hàng tồn kho cao đã giúp HSG và NKG và đã được hưởng lợi khi giá HRC tăng trở lại với tỷ suất lợi nhuận gộp có thời điểm lên tới 25% trong năm 2016. Giai đoạn sau đó, giá HRC tiếp tục duy trì ở mức cao khi Trung Quốc đóng cửa nhiều nhà máy thép đã khiến biên lãi của gộp của HSG và NKG giảm mạnh về mức đỉnh điểm là 8% và 0,6% vào thời điểm cuối năm 2018.
Từ đầu năm 2019, giá HRC bắt đầu hạ nhiệt giúp cho biên lãi của HSG và NKG dần phục hồi. Đây cũng là nguyên nhân chính giúp HSG và NKG đạt được con số lợi nhuận ấn tượng trong quý 1 năm nay, bất kể doanh thu có sự suy giảm. Tuy vậy, xét trên tổng thể thì việc phụ thuộc quá nhiều vào diễn biến giá nguyên liệu lại là một rủi ro lớn thay vì là một cơ hội. Biên lãi của doanh nghiệp có duy trì được trong những quý sau hay không, điều nay sẽ phụ thuộc vào diễn biến của giá nguyên liệu trong tương lai.
Dự án Dung Quất của Hòa Phát sẽ làm thay đổi bố cục ngành tôn trong nước
Đặc thù ngành sản xuất tôn mạ là khâu cuối cùng của toàn bộ chuỗi giá trị ngành thép. Theo đó, các doanh nghiệp sản xuất tôn sẽ nhập nguyên liệu đầu vào là thép cuộn cán nóng hoặc cán nguội về, sau đó cán lại, gia công và cắt thành tôn. Do vậy, đây là khâu sản xuất có mức độ đầu tư vốn và độ khó thấp nhất trong tổ hợp ngành thép khiến doanh nghiệp hầu như không thể tạo được lợi thế cạnh tranh trong quá trình sản xuất sản phẩm của mình.
Tuy nhiên, tình hình sẽ thay đổi trong năm 2020 khi dự án Dung Quất giai đoạn 2 với công suất 2 triệu tấn HRC mỗi năm của Hòa Phát đi vào hoạt động. Với Dung Quất, Hòa Phát sẽ là doanh nghiệp đầu tiên của Việt Nam sản xuất tôn tự chủ được nguồn nguyên liệu đầu vào. Điều này sẽ giúp Hòa Phát có được chi phí sản xuất thấp và ít biến động hơn so với các doanh nghiệp nhập khẩu hoặc thu mua từ HRC từ nguồn bên ngoài như hiện nay. Bên cạnh đó, việc tự chủ được nguồn nguyên liệu cũng đem lại lợi thế lớn cho Hòa Phát trong thị trường xuất khẩu nhờ chứng minh được sản phẩm tôn nguồn gốc xuất xứ từ trong nước.
Như vậy, không những chiếc bánh thị trường tôn đang dần bị thu hẹp lại, 2 ông lón của ngành tôn HSG và NKG còn phải đối mặt với rủi ro là phải sẻ chia chiếc bánh này cho một đối thủ mới và nặng ký hơn mang tên Hòa Phát. Không chỉ là tái cấu trúc lại bộ máy, HSG và NKG cần phải có nhiều biện pháp quyết liệt hơn để có thể cải thiện được hiệu quả kinh doanh trong tương lai.